Tích Ngài Đại Đức Sivali - Đệ Nhất Tài Lộc

Trong thời kỳ Đức Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian, tiền kiếp của Ngài Đại đức Sivali là một cận sự nam trong gia đình giàu có trong kinh thành Hamsavali. Một hôm, cận sự nam đến chùa nghe Đức Phật Padumuttara thuyết pháp. Khi ấy, Đức Phật tuyên dương một vị Thánh Đại thanh văn đệ tử có tài lộc bậc nhất trong hàng thanh văn của Đức Phật.

 

Cận sự nam, tiền kiếp của  Ngài Đại đức Sivali thấy Ngài Đại Trưởng lão ấy, liền phát sinh đại thiện tâm trong sạch, có ý nguyện muốn trở thành bậc Thánh Đại Thanh văn đệ tử có tài lộc bậc nhất trong hàng Thanh văn đệ tử của Đức Phật trong thời vị lai, như Ngài đại trưởng lão ấy.

 

Cận sự nam ấy đến hầu đảnh lễ Đức Phật Padumuttara rồi kính thỉnh Đức Phật ngự đến tư gia cùng với chư Đại đức tỳ khưu Tăng, để tạo phước thiện bố thí suốt 7 ngày.

Đến ngày thứ 7, cận sự nam cúng dường bộ y quý giá đến Đức Phật Padumuttara cùng chư Đại Đức tỳ khưu Tăng mỗi vị một bộ.

Sau khi dâng các bộ y xong, cận sự nam ấy đến đảnh lễ Đức Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ, kính bạch rằng:

 

-Kính bạch Đức Thế Tôn, phước thiện bố thí mà con đã tạo suốt 7 ngày qua, con không mong gì khác hơn là có ý nguyện muốn trở thành bậc Thánh Đại thanh văn đệ tử có tài lộc bậc nhất trong hàng thanh văn đệ tử của Đức Phật trong thời vị lai, như Ngài Đại thanh văn đệ tử hiện tại của Đức Thế Tôn.

 

Đức Phật Padumuttara dùng trí tuệ vị lai kiến minh thấy rõ, biết rõ nguyện vọng của cận sự nam này sẽ được thành tựu trong kiếp vị vai nên Đức Phật thọ ký xác định thời gian rằng:

-"Này chư tỳ khưu! Kể từ kiếp trái đất này, sẽ trải qua 100 ngàn đại kiếp trái đất cho đến kiếp trái đất Bhaddakappa có Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, Khi ấy, cận sự nam này sẽ sinh trong hoàng tọc từ bỏ nhà đi xuất gia, rồi sẽ trở thành bậc Thánh Đại Thanh văn để tử có tài lộc bậc nhất trong hàng thanh văn để tử của Đức Phật Gotama, như là bậc Thánh Đại Thanh văn đệ tử hiện tại của Như Lai.

 

Lắng nghe lời thọ kỹ của Đức Phật Padumuttara, cận sự nam tiền kiếp của Ngài Đại Đức Sivali vô cùng hoan hỷ tạo mọi phước thiện bố thí 4 tứ vật dụng đến Đức Phật cùng chư đại đức tỳ khưu tăng đến trọn đời.

 

Trong vòng sinh tử luận hồi, do đại thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau khi thì sinh làm vị thiên nam cao quý trong cõi trời dục giới, khi thì sinh làm  người cao quý trong cõi người. Khi sinh làm có người có đại thiện tam trong sạch hoan hỷ tinh tấn bồi bổ 10 pháp hạnh ba la mật cho đầy đủ, nhát là pháp hạnh bố thí ba la mật.

 

Trong thời ký Đức Phật Vipassi xuất hiện trên thế gina, tiền kiếp của Ngài Đại Đức Sivali trong một ngôi làng không xa kinh thành Bandhymati. Khi ấy, nhóm dân chúng kinh thành Bandumuta cùng nhau sửa soạn chuẩn bị tạo phước thiện đại thí cúng dưỡng vật thực lên Đức Phật Vipassi cùng với chư đại đức tỳ khưu Tăng với quyết tâm có đầy đủ các món ăn không để thiếu món ăn nào cả.

 

Họ xem xét kỹ thấy còn thiếu 2 món là mật ong và bơ đặc, nên họ cho người đi chờ đón ở 4 của thành, hễ thayas người nào mang 2 món này vào kinh thành, thì bất cứ giá cao bao nhiêu cũng phải mua cho được.

 

Khi ấy, người dân làng ( tiền kiếp của  Ngài Đại đức Sivali ) đi đến kinh thành, có đem theo tổ mật ong và bơ đặc. Nhìn thấy người dân làng có đem theo tổ mật ong và bơ đặc, người dân kinh thành muốn mua 2 món ấy với gia cao là 1 kahapana.

 

Người dân suy nghĩ rằng: ' Hai món này của ta không đáng giá bao nhiêu, sao người ấy dám mua với gia cao 1 kahapana như vậy. Ta nên tìm hiểu để biết rõ sự thật"

 

Người dân làng giả bộ không chịu bán với giá 1 kahapana, thì người ấy liền tăng lên 2 kahapana, 5 kahapana, 10 kahapana, 100kahapana, cuối cùng lên đến giá 1000kahapana

Khi ấy, người dân làng muốn biết sự thạt nên hỏi người ấy rằng:

- Này bạn thân mến!: Hai món là tổ ong và bơ đặc  này của tôi không đáng bao nhiêu, tại sao bạn lại trả giá cao đến 1000 kahapana như vậy. Bạn cần 2 món này để làm việc gì? Bạn có thể nói cho tôi biết được hay không?

Người dân kinh thành đáp rằng:

 

- Này bạn thân mến! Nhóm dân chugns kinh thành chúng tôi đồng tâm cùng nhau tạo phước thiện bố thí cúng dường lên Đức Phật Vipassi cùng với chư Đại đức tỳ khưu Tăng. Nhóm dân chúng kinh thành chúng tôi với quyết tâm có đầy đủ các món ăn, không thể thiếu món ăn nào cả.

 

Khi xem xét kỹ thấy còn thiếu 2 món là mật ong và bơ đặc, nên cho người đứng chờ đón ở 4 cửa thành, hễ thaasynguwofi nào mang 2 món này vào kinh thành, thì bất cứ giá cao bao nhiêu cũng phải mua cho được.

Người dân làng thưa răng: 

- Thưa bạn thân mến! Việc tạo phước thiện bố thí cúng dường lên Đức Phật Vipassi cùng với chư Đại đức tỳ khưu Tăng, dành cho dân chúng trong kinh thành Badhuymati, còn người khác có thể cùng tạo phước thiện bố thí cúng dường được hay không?

Người kinh thành thưa rằng: 

- Thưa bạn thân mến! Việc tạo phước thiện bố thí cúng dưỡng lên Đức Phật Vipassi cùng với chư Đại Đức Tỳ Khưu Tăng không chỉ dành cho dân chúng trong kinh thành Bandhumati mà những người khác cũng tạo phước thiện bố thí cúng dường được vậy.

Người dân làng thưa khẳng định rằng:

- Thưa bạn thân mến! Bạn nên thông báo cho mọi người biết rằng: Hôm nay việc tạo phước thiện bố thí cúng dường các món vật thực có đầy đủ cả 2 món mật ong và bơ đặc lên Đức Phật Vipassi'

Xin bạn làm chứng, hôm nay tôi sẽ đêm 2 món là mật ong và bơ đặc cúng dưỡng lên Đức Phật Vipassi

Người dân làng ( Tiền kiếp của Ngài Đại Đức Sivali) phát sinh đại thiện tâm vô cùng hoan hỷ có được cơ hội tạo phước thiện bố thí cúng dường lên Đức Phật Vipassi, nên đi tìm thêm gia vị trộn chung mật ong và bơ đặc làm thành món ăn đặc biệt, rồi gói bằng lá sen, đến ngồi chờ một chỗ không xa Đức Phật.

 

Chờ những người dân chúng trong kinh thành đến cúng dướng các món vật thực lên Đức Phật xong. Người dân làng có cơ hội đến hầu cung kính đảnh lễ Đức Phật rồi bạch rằng:

-Kính bạch Đức Thế Tôn, đây là món ăn đạm bạc của con kính dâng lên chư Đại đức tỳ khưu Tăng có Đức Thế Tôn chủ trì. Kính xin Đức Thế Tôn có tâm đại bi tế độ nhận món ăn này của con.

 

Đức Phật Vipassi có tâm đại bi tế độ nhận món ăn đạm bạc ấy bằng cái bát ngọc do Tứ Đại Thiên vương kính dâng, rồi Đức Phật phát nguyện, đem chia món ăn đạm bạc ấy đầy đủ cho 68.000 chư Đại đức tỳ khưu Tăng.

 

Thấy Đức Phật Vipassi cùng với chư Đại đức tỳ khư Tăng thọ thực xong, người dân làng ( tiền kiếp của ngài Đại Đức Sivali) cung kính đảnh lễ Đức Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ, kính bạch rằng:

-Kính bạch Đức Thế Tôn, hôm nay, dân chúng trong kinh thành Bandhumati đem các món vật thực đến cúng dường lên Đức Thế Tôn cùng với chư Đại đức tỳ khưu Tăng; và con cũng cúng dường món ăn đạm bạc ấy lên Đức Thế Tôn  cùng với chư Đại đức tỳ khưu Tăng. Do năng lực của đại thiện nghiệp bố thí cúng dưỡng này, xin cho kiếp sau của con có được tài lộc bậc nhất.

 

Nghe lời nguyện cầu như vậy, Đức Phật Vipasssi truyền dạy rằng:

- Này cận sự nam! Lời nguyện cầu của con sẽ thành tựu như ý:

Sau đó, Đức Phật Vipassi thuyết pháp tế độ dân chúng kinh thành Bandhumati, rồi ngự trở về ngôi chùa cùng với chư Đại Đức Tỳ khưu Tăng.

 

Người dân làng cố gắng tinh tấn bồi bổ 10 pháp hạnh ba la mật cho đến trọn kiếp.

 

Sau khi cận sự nam tiền kiếp của Ngài Đại Đức Sivali chết, đại thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người trong cõi người hoặc sinh làm vị thiên nam trên cõi trời dục giới. Kiếp làm người có gắng tinh tấn bồi bổ pháp hạnh ba la mật cho được đầy đủ, đặc biệt pháp hạnh bố thí ba la mật.

 

CÔNG TỬ SIVALI KIẾP CHÓT

 Trong thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu kiếp của người cận sự nam trong thời kỳ Đức Phật Padumuttara đã bồi bổ đầy đủ 10 pháp hạnh ba la mạt và 5 pháp chủ: tín pháp chủ, tấn pháp chủ, niệm pháp chủ, định pháp chủ, tuệ pháp chủ, nên sau khi chết, đại thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp chót vào lòng công chúa Supavasa của Đức Vua Koliya, tại kinh thành Koliya. Công chúa Suppavasa vốn là bậc thánh nhập lưu có đức tin trong sạch vững chắc nơi tam bảo, thường hộ độ Đức Phật Gotama.

QUẢ BÁU CỦA ĐẠI THIỆN NGHIỆP BỐ THÍ

Từ khi công chúa Suppavasa mang thai ( Công tử Sivali), do năng lực quả đại thiện nghiệp của thai nhi, từ sáng đến chiều, công chúa Suppavasa nhận nhiều lễ vật quý giá từ mọi nươi đếm đến kính biếu lên công chúa.

Hoàng tộc muốn biết công chúa Suppavasa có nhiều tài lộc như thế nào, nên mời công chúa đến kho lương thực, công chúa lấy tay chạm vào kho nào thì kho ấy đầy của cai, nên các kho đều đầy của cải.

 

Vị quan đem các hạt giống đến nhờ công chúa lấy tay chạm vào các hạt giống, rồi đem  phân phát cho dân chúng gieo trông các hạt giống ấy. Đến mùa, dân chúng thu hoạch kết quả gấp bội phần, gấp trăm, gấp ngàn, gấp vạn lần, ...thật là kỳ diệu chưa từng có.

 

Một hôm, thị nữ trong cung đem nồi cơm đến xin công chúa Supppavasa chamh tay vào nồi, rồi đem cho mọi người dùng. Dù có bao nhiêu người dùng cơm, cũng không làm cho nồi cơm vơi bớt chút nào cả.

Cho nên, mọi người trong hoàng tọc đếu tán dương ca tụng công chúa Suppavasa rằng: 

"Tài lộc của công chủa Suppavassa thật là kỳ diệu"

Sở dĩ, công chúa Cuppavasa hưởng được tài lộc kỳ diệu như vậy là nhờ quả báu của đại thiện nghiệp bố thí của thai nhi ( công tử Sivali_ nằm trong bụng của công chúa Suppavasa.

CÔNG TỬ SIVALI NẰM TRONG BỤNG THÂN MẪU

Thai nhi ( công tử sivali) nằm trong bụng công chúa Suppavasa suốt 7 năm, công chúa và thai nhi vẫn được an lạc như thường. Trong 7 ngày sắp sinh ra đời,  công chúa Suppavasa phải chịu bao nỗi khổ đau đớn cùng cực, bởi vì thai nhi nằm ngang không thể sinh ra được.  Công chúa vốn là bậc thánh nhập lưu niệm 9 ân đức Phật bảo, 6 ân đức Pháp bảo, 9 ân đức Tăng bảo, làm cho tâm được ổn định. Đến ngày thứ 7, tưởng chừng không thể sống nổi, nên  công chúa Suppavasa của Đức Vua Koliya thưa với phu quân là hoàng tử của Đức Vua Koliya rằng:

-Kính thưa phu quân, trước khi chết, thiếp muốn tạo phước thiện bố thí cúng dường đến chư Đại đức tỳ khưu Tăng có Đức Phật chủ trì.

Kính xin phu quân đi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi bạch về chuyện thiếp dang phải chịu đau đớn đến cùng cực, vì thai nhi trong bụng không thể sinh ra được rằng:

-"Kính bạch Đức Thế Tôn, công chúa Suppavasa mang thai suốt 7 năm rồi, trong 7 ngày này phải chịu đau đớn đến cùng cực bởi  vì thai nhi trong bụng không thể sinh ra được.

Kính thỉnh Đức Thể Tôn ngự đến cung điện cùng với chư Đại đức tỳ khưu Tăng, để cho công chúa Suppavasa tạo phước thiện bố thí cúng dường đến chư Đại đức tỳ khưu Tăng có Đức Phật Chủ Trì"

Nghe Đức Thế Tôn truyền dậy thế nào, kinh xin phu quân ghi nhớ thế ấy, khi hồi cung thuật lại cho thiếp biết.

Nghe lời thỉnh cầu của công chủa Suppavassa, vị phu quân đi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn tại ngôi chùa Nigrodharama kinh thành Kapilavatthu, rồi kính bạch theo lời công chúa Suppavasa.

Đức Thế Tôn truyền dậy rằng:

"Sukhini hotu Suppavasa Koliyadhita aroga, arogam puttam vijayatu"

( Mong cho công chúa Suppavasa của Đức vua Koliya thân tâm được an lạc không bệnh, sinh ra công tử được an toàn)

Sau khi nghe Đức Phật truyền dạy như vậy,  vị phu quân là hoàng tử của Đức Vua Koliya kính đảnh lễ Đức Phật rồi xin phép hồi cung.

Sau khi Đức Phật truyền dạy vừa dứt lời, tại cung điện, thai nhi là công tử sinh ra khỏi lòng công chúa Suppavasa được an lành, và dễ dàng như nước chảy ra khỏi bình vậy.

Mọi người trong hoàng tộc vô cùng hoan hỷ thấy công tử đã sinh ra đời được an toàn, cùng nhau đến chầu hoàng tử phu quân của công chúa Suppavasa để trình tin lành này.

Hoàng tử phu quân của công chúa Suppavasa về đến cung điện, thấy mọi người trong hoàng tộc hân hoan vui mừng, trình với hoàng tử tin lành là công tử đã được sinh ra đời an toàn.

Khi ấy, hoàng tử suy nghĩ rằng:

"Lời truyền dạy của Đức Thế Tôn thật huyền diệu:"

Vị phu quân đến gặp  công chúa Suppavasa, thuật lại y theo lời của Đức Phật cho công chúa nghe.

Công tử sinh ra đời đã dập tắt được sự nóng lòng của mọi người trong hoàng tộc, nên làm lễ đặt tên là Sivalidaraka: Công tử Sivali.

 

Khi ấy,  công chúa Suppavasa thưa với phu quân:

-Kính thưa phu quân, thiếp muốn tạo phước thiện bố thí cúng dường đến Đại đức tỳ khưu Tăng có Đức Phật chủ trì suốt 7 ngày.

Vị phu quân thuận ý, rồi đi đến kính thỉnh Đức Phật ngự đến cung điện cùng với chư Đại đức tỳ khưu Tăng để công chúa Suppavasa tạo phước thiện bố thí cúng dường vật thực đến chư Đại Đức Tỳ khưu Tăng có Đức Phật Chủ Trì suốt 7 ngày.

Sáng hôm sau, Đức Phật ngự đến cung điện cùng với Chư Đại đức Tỳ khưu Tăng; công chúa Suppavasa cung kính đảnh lễ Đức Phật cùng với chư Đại đức tỳ khưu Tăng suốt 7 ngày.

Trong ngày thứ 7 hôm ấy, Ngài Đại Trưởng Lão Sariputta hỏi chuyện công tử Sivali rằng:

- Này Sivali! Con đã chịu đựng nỗi khổ ở trong lòng thân mẫu lâu như vậy, nay con muốn xuất gia để thoát khổ hay không?

Công tử Sivali bạch rằng:

- Kính bạch Ngài Đại Trưởng lão, con muốn xuất gia để giải thoát khổ, nếu con được mãu thân hoặc phụ thân cho phép.

Thấy công tử Sivali bạch chuyện với Ngài Đại Trưởng lão,  công chúa Suppavasa muốn biết nói chuyện gì, nên đến bạch hỏi Ngài Đại Trưởng Lão rằng:

-Kích bạch Ngài Đại Trưởng Lão, hài nhi của con bạch điều gì với Ngài Đại Trưởng Lão vậy? Bạch Ngài

Này công chúa! Công tử của bà bạch về nỗi khổ nằm trong lòng thân mẫu suốt thời gian lâu dài như vậy, nên bạch rằng:

"Con muốn xuất gia để giải thoát khổ, nếu con được mẫu thân hoặc phụ thân cho phép"

Nghe Ngài Đại Trưởng lão cho biết như vậy,  công chúa Suppavasa vô cùng hoanhyr cho phép công tử Sivali đi xuất gia, để giải thoát khổ, công chúa bạch rằng:

-Kích bạch Ngài Đại Trưởng lão, con vô cùng hoan hỷ đồng ý cho phép hài nhi của con xuất gia để giải thoát khổ, Kính xin Ngài Đại Trưởng Lão có tâm từ tế độ hài nhi của con. Bạch Ngài.

CÔNG TỬ SIVALI XUẤT GIA

Ngài Đại Trưởng lão Sariputta dẫn công tử Sivali trở về chùa. Khi làm lễ cạo tóc xuất gia, Ngài Đại Trưởng Lão là Vị Thầy Tế độ truyền dạy công tử Sivali thực hành niệm đề mục thiền định (tóc, lông, móng, răng, da, răng, móng, tóc..) theo chiều thuận, theo chiều nghịch, có trị tuệ thấy rõ biết rõ khổ đế, khi nằm trong bụng mẫu thân.

LỄ CẠO TÓC

*Ngài Đại Trưởng lão Mahamoggallana là Vị Thầy cạo tóc, khi những sợi tóc đầu tiên rơi ruống, công tử Sivali chứng ngộ chân lý tứ Thánh đế, chứng đắc Nhập lưu Thánh đạo, Nhập lưu Thánh quả, Niết Bàn, trở thành bậc Thánh nhập lưu.

Tiếp theo những sợi tóc thứ nhì rơi xuống, công tử sivali chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhất Lai Thánh Đạo, Nhất Lai thánh quả, Niết bàn, và trở thành bậc Thánh Nhất Lai.

* Tiếp theo những sợi tóc thứ ba rơi xuống, công tử SIvali chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc Bất lai Thánh đạo, Bất lai Thánh quả, Niết bàn, trở thành bậc Thánh Bất lai.

*Tiếp theo những sợi tóc cuối cùng rơi xuống, công tử Sivali chứng ngộ chân lý tứ Thánh đế, chứng đắc Arahans Thánh đạo, Arahans Thánh Quả, Niết Bàn, diệt tận được mọi sự tham ái, mọi phiền não không còn dư sót, trờ thành bậc Thánh Arahans cao thượng cùng với tứ tuệ phân tích, sáu phép thần thông, đồng thời lễ cạo tóc không trước không sau.

Như vậy, Công tử Sivali trở thành bậc Thánh Arahans lúc 7 năm và 14 ngày ( kể từ khi công tử Sivali tái sinh đầu thai kiếp chót vào lòng mẫu thân Suppavasa suốt 7 năm và chịu khổ suốt 7 ngày mơi sinh ra đời và lễ phước thiện bố thí cúng dường đến ngày thứ 7.

Sau đó , Ngài Đại Trưởng Lão Sariputta là Thầy Tế độ làm lễ xuất gia sa si cho giới tử Sivali

Kể từ ngày vị sa di Sivali trở thành bậc Thánh A ra hán, hàng ngày chư thiên khắp mọi nơi, các thỉ chủ dâng cúng dường 4 thứ vật dụng đến cho Ngài Đại đức Sivali cùng chư Đại đức tỳ khưu ngày càng đầy đủ, sung túc mà trước đây chưa từng có.

Một hôm, Đức Phật sẽ ngự đi đến kinh thành Savathi, Khi ấy, Ngài Đại đức Sivali đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi bạch rằng:

-Kính bạch Đức Thế Tôn, con muốn thử nghiệm quả phước thiện bố thí của con, kính xin Đức Thế Tôn cho phép con lãnh 500 Ngại Đại đức tỳ khưu.

Đức Phật truyền dạy:

-Này Sivali, Như lai cho phép con lãnh 500 Ngài Đại đức tỳ khưu..

CHƯ THIÊN CÚNG DƯỜNG NGÀI ĐẠI ĐỨC SIVALI 8 NƠI

1. Lần thứu nhất, chư thiên ngự tại cội cây Nigrodha biến hóa ra 4 thứ vật dụng là y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh cúng dường đầy đủ đến Ngài Đại đức Sivali cùng với 500 Ngài Đại đức Tỳ khưu tăng suốt 7 ngày.

2. Lần thứ nhì, chư thiên ngự tại núi Pandava biến hóa ra 4 thứ vật dụng là y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh cúng dường đầy đủ đến Ngài đại đức tỳ khưu tăng suốt 7 ngày.

3. Lần thứ 3, chư thiện ngự tại con sống Aciravati biến hóa ra 4 thứ vật dụng là y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh cúng dường đầy đủ đến ngài đại đức Sivali cùng với 500 Ngài Đại đức tỳ khưu tăng suốt 7 ngày.

4. lần thứ 4, chư thiện ngự tại đại dương biến ra 4 thứ vật dụng là y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh cúng dường đầy đủ đến Ngài Đại Đức Sivali cùng với 500 Ngài Đại đức Tỳ khưu Tăng suốt 7 ngày.

5. Lần thứ 5, chư thiện ngự tại núi rừng Himavanta biến hóa ra 4 thứ vật dụng là y phục,  vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh cúng dường đầy đủ đến Ngài Đại đức Sivali cùng với 500 Ngài Đại đức tỳ khưu Tăng suốt 7 ngày.

6. Lần thứ 6, chư thiện ngự tại hồ nước Chaddanta biến ra 4 vật dụng là y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh cúng dường đầy đủ đến Ngài Đại đức Sivali cùng với 500 Ngài đại đức tỳ khưu tăng suốt 7 ngày.

7. Lần thứ 7, chư thiên ngự tại núi rừng Gandhammadana có Đức Vua Trời tên là Nagadatta biến hóa ra 4 thứ vật dụng là y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh cúng dường đầy đủ đến Ngài Đại đức Sivali cùng với 500 Ngài Đại đức tỳ khưu tăng suốt 7 ngày,

Đặc biệt có ngày cơm nấu bằng sữa tươi, có ngày cơm trộn với bơ lỏng.

Một hôm, vị tỳ khưu hỏi Đức vùa trời rằng:

-Thưa Đức Vua Trời! Những con bò sữa của Đức Vua Trời không thấy xuất hiện, lò quấy làm bơ lỏng cũng không có.

Vậy, cơm nấu bằng sữa tươi, cơm trộn với bở lỏng Đức Vua Trời có được từ đâu?

Nghe vị tỳ khưu hỏi như vậy, Đức vua trời giải đáp rằng:

-Kính bạch Ngài Trưởng Lão, đó là quả báu của đại thiện nghiệp bố thí cơm nấu bằng sữa tươi, cơm trộn với bơ lỏng mà tiền kiếp của bổn vưỡng đã cúng dướng lên Đức Phật Kasssapa trong thời quá khứ.

8. Lần thứ tám, các chư thiên trú trên đường dài khoảng  30 do tuần đi đến khu rừng cây có gai là nơi trú ngụ của Ngài Đại đức Revata.

Tích Ngài Đại-đức Revata (1) Một thuở nọ, Đức-Phật ngự tại ngôi chùa Jetavana, gần kinh-thành Sāvatthī, đề cập đến Ngài Đại-đức Revata trú ngụ tại khu rừng cây gai được tóm lược như sau:

Ngài Đại-đức Revata là em út của Ngài ĐạiTrưởng-lão Sāriputta. Khi còn tại gia, Ngài ĐạiTrưởng-lão Sāriputta tên là công-tử Upatissa, sinh trong gia-đình giàu sang phú quý có tài sản 870 triệu, là anh cả có 3 người em gái là tiểu-thư Cālā, tiểu-thư Upacālā, tiểu-thư Sīsūpacālā và 3 người em trai là công-tử Cunda, công-tử Upasena, sau này đều xuất gia đã trở thành bậc Thánh A-ra-hán, chỉ còn đứa em út là công-tử Revata mới được 7 tuổi còn ở tại gia.

Mẫu-thân và phụ-thân của Ngài Đại-Trưởnglão Sāriputta là người chưa có đức-tin nơi Tambảo, muốn ngăn cản không cho công-tử Revata đi xuất gia như 3 người anh và 3 chị của côngtử, nên bàn bạc với nhau phải ràng buộc công-tử Revata ở tại gia, để giữ gìn gia sản đồ sộ và sinh con cái nối dòng, nên làm đám cưới với một cô gái trong gia đình cũng giàu có tương xứng.

Ngày làm lễ rước dâu, công-tử Revata (7 tuổi) ăn mặc sang trọng, ngồi trên chiếc xe ngựa sang 1 Dha. aṭṭhakathā, Arahantavagga, Khadiravaniyarevatattheravatthu. 20 TÍCH NGÀI ĐẠI-ĐỨC SĪVALI trọng cùng với một đoàn người thân quyến đi đến nhà gái cử hành hôn lễ. Tại nhà gái, khi cô dâu và chú rể làm lễ thành hôn, bà nội của cô dâu già 120 tuổi, đầu bạc, đôi hàm răng rụng cả, lưng còng, da nhăn nheo đến chúc mừng cháu gái sống lâu như bà.

Công-tử Revata nhìn thấy bà nội già lọm khọm, rồi suy xét: “Sau này cô gái này cũng già như bà nội ấy hay sao? “Sắc-thân” này là vôthường biến đổi từ trẻ đến già như thế này, rồi sẽ chết, sự thật chỉ là khổ mà thôi!

Anh cả Upatissa của ta có trí-tuệ thấy rõ, biết rõ sự-thật này, nên đã xuất gia giải thoát khổ. Vậy hôm nay, ta cũng sẽ xuất gia như anh cả.”

Sau khi nghi lễ thành hôn xong, thân quyến đưa cậu Revata lên ngồi chung chiếc xe ngựa với cô dâu, rời khỏi gia đình nhà gái trở về nhà trai của mình.

Khi chiếc xe ngựa đi được một quãng đường xa đến khu rừng, công-tử Revata bảo xe ngừng lại, bước xuống giả bộ như đi đại tiện, bảo chiếc xe hãy đi trước, cậu sẽ đi theo sau. Nhưng thật ra, công-tử Revata có ý định xuất gia nên trốn đi vào trong rừng, cậu tìm thấy ngôi chùa nhỏ có khoảng 30 Ngài Trưởng-lão

Công-tử Revata vào chùa đảnh lễ các Ngài Trưởng-lão, rồi kính xin quý Ngài cho phép xuất Tích Ngài Đại-Đức Revata 21 gia. Quý Ngài Trưởng-lão nhìn thấy công-tử Revata ăn mặc sang trọng, đeo các đồ trang sức vàng ngọc quý giá như các công-tử của các vị quan lớn.

Ngài Trưởng-lão truyền bảo rằng: - Này cậu bé! Cậu đến đây chỉ có một mình, không có mẹ cha, làm sao chúng ta cho phép cậu xuất gia được?

Công-tử Revata cung-kính bạch với quý Ngài Trưởng-lão rằng:

- Kính bạch quý Ngài Trưởng-lão, con tên là Revata, là em út của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta. Kính xin quý Ngài Trưởng-lão cho phép con được xuất gia.

Quý Ngài Trưởng-lão đã từng nghe Ngài ĐạiTrưởng-lão Sāriputta dặn dò rằng:

“Nếu có cậu em út Revata của tôi đến kính xin xuất gia, thì xin quý Ngài Trưởng-lão có tâm-từ tế độ cho phép cậu em út Revata của tôi được xuất gia.”

Ngài Trưởng-lão truyền bảo rằng:

- Này cậu bé! Nếu cậu chính là Revata, em út của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, thì chúng tôi đồng ý cho phép cậu xuất gia.

Quý Ngài Trưởng-lão truyền bảo cậu Revata cởi bỏ y phục và các đồ trang sức vàng ngọc ra, rồi Ngài Trưởng-lão làm lễ cạo tóc, truyền dạy cậu Revata thực-hành niệm “tacapañcakakammaṭṭhāna: đề-mục thiền-định nhóm tacapañcaka đó là kesā, lomā, nakkhā, dantā, taco; taco, dantā, nakkhā, lomā, kesā; … (tóc, lông, móng, răng, da; da, răng, móng, lông, tóc;…) theo chiều thuận, theo chiều nghịch. Sau đó làm lễ xuất gia, trở thành vị sa-di Revata.

Sau khi lễ xuất gia xong, các Ngài Trưởng-lão gởi tin kính bạch cho Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta biết rằng:

“Cậu em út Revata của Ngài Đại-Trưởng-lão đã làm lễ xuất gia trở thành vị sa-di Revata rồi.”

Được tin đứa em út Revata đã xuất gia trở thành sa-di Revata ở trong rừng, Ngài ĐạiTrưởng-lão Sāriputta vào đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, bạch rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, chư tỳ-khưu trú trong rừng gởi tin báo cho con biết rằng: “Chư tỳ-khưu đã cho đứa em út Revata của con xuất gia trở thành sa-di Revata rồi.”

Kính xin Đức-Thế-Tôn cho phép con đi đến thăm sa-di Revata, rồi con trở về. Bạch Ngài.

Nghe Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta bạch như vậy, Đức-Phật thấy rõ, biết rõ sa-di Revata sẽ thực hành pháp-hành thiền-tuệ, để trở thành bậc Thánh A-ra-hán, nên Đức-Phật khuyên ngăn Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta rằng:

- Này Sāriputta! Con nên chờ đợi thời gian, rồi Như-lai cũng sẽ cùng đi.

Vị sa-di Revata trở thành bậc Thánh A-ra-hán

Vị sa-di Revata nghĩ rằng: “Nếu ta trú tại nơi này, thì mẫu-thân và phụ-thân cho người đến tìm ta, rồi dẫn ta trở về nhà.

Vậy, ta nên xin học pháp-hành thiền-định và pháp hành thiền-tuệ từ nơi quý Ngài Trưởnglão, rồi ta xin phép rời khỏi chỗ này, một mình đi vào trong rừng sâu.”

Nghĩ như vậy, vị sa-di Revata đến đảnh lễ Ngài Trưởng-lão xin học pháp-hành thiền-định và pháp-hành thiền-tuệ xong, rồi một mình xin phép đi đến khu rừng cây có gai cách 30 do-tuần (600 cây số), làm chỗ ở, rồi an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa. Vị sa-di Revata thực hành pháp-hành thiền-định rồi tiếp theo thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc theo tuần tự từ Nhậplưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn; Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả, Niết- bàn; Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả, Niết-bàn; cho đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-rahán Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng, cùng với tứ tuệ-phân-tích (paṭisambhidā), lục-thông (chaḷabhiññā) sáu phép-thần-thông

Như vậy, vị sa-di Revata trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng lúc 7 tuổi

Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến thăm Ngài Đại-đức Revata(1)

Sau khi ra hạ, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, xin phép đi thăm sư đệ Revata. Đức-Phật truyền bảo rằng:

- Này Sāriputta! Như-lai cũng sẽ cùng đi.

Đức-Phật ngự đi cùng với đoàn 500 Ngài Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, khi đi đến một nơi, dừng lại ngay ngã ba, Ngài Trưởng-lão Ānanda bạch với Đức-Thế-Tôn rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, đường dẫn đi đến chỗ ở của Ngài Đại-đức Revata có 2 con đường:

* Con đường bên này là đường đi vòng dài khoảng 60 do-tuần (1.200 cây số) có xóm làng và dân chúng sinh sống

* Con đường bên kia là đường đi thẳng dài khoảng 30 do-tuần (600 cây số) có các phi-nhân (chư-thiên) cai quản.

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Ngài cho phép đi theo con đường nào? Bạch Ngài.

Đức-Phật truyền hỏi Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:

- Này Ānanda! Sīvali cùng đi trong đoàn 500 tỳ-khưu có phải không?

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, dạ phải, Đại-đức Sīvali có đi trong đoàn 500 Ngài Đại-đức tỳkhưu-Tăng. Bạch Ngài.

- Này Ānanda! Nếu như vậy, thì con chọn con đường thẳng ấy mà đi.

Đức-Phật truyền bảo Ngài Trưởng-lão Ānanda chọn đi con đường thẳng dài khoảng 30 do-tuần (600 cây số) này, vì Đức-Phật muốn chứng tỏ quả báu của đại-thiện-nghiệp bố-thí của Ngài Đại-đức Sīvali. Bởi vì thấy rõ, biết rõ trên quãng đường thẳng này có tất cả chư-thiên đều có đại-thiện-tâm kính yêu Ngài Đại-đức Sīvali, nên tất cả chư-thiên đều phát sinh đạithiện-tâm hết lòng lo phục vụ tạo phước-thiện 26 TÍCH NGÀI ĐẠI-ĐỨC SĪVALI bố-thí cúng-dường đến Ngài Đại-đức Sīvali, vị tôn-sư của tất cả chư-thiên ấy.

Chư-thiên cúng-dường đến Ngài Đại-đức Sīvali Khi Đức-Phật truyền bảo Ngài Trưởng-lão Ānanda chọn con đường thẳng này, tất cả chưthiên đều nghĩ rằng:

“Tất cả chư-thiên chúng ta sẽ hết lòng thành kính cúng-dường Ngài Đại-đức Sīvali, vị tôn-sư của tất cả chư-thiên chúng ta.”

Cho nên, trên quãng đường dài suốt 30 do-tuần (600 cây số), cứ mỗi do-tuần (20 cây số), tất cả chư-thiên hóa ra thành-phố có dân chúng sinh sống đông đúc, hóa ra ngôi chùa lớn có đầy đủ mọi tiện nghi cúng-dường lên Đức-Phật là Đức Từ-Phụ của Ngài Đại-đức Sīvali, và 500 cốc nhỏ có đầy đủ mọi tiện nghi cần thiết sẵn sàng để cúng-dường 500 chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.

Khi Đức-Phật ngự đi cùng với đoàn 500 Ngài Đại-đức tỳ-khưu-Tăng qua mỗi do-tuần dừng lại nghỉ chân, thì có các chỗ ở thích hợp có đầy đủ mọi tiện nghi cần thiết.

Chư-thiên dâng cúng-dường mật ong, nước trái cây lên Đức-Phật cùng với đoàn 500 Ngài Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, nước ấm nước dùng đầy đủ. Đức-Phật cùng với đoàn 500 Ngài Đại-đức tỳ-khưu-Tăng nghỉ lại qua đêm tại nơi ấy.

Buổi sáng sớm, tất cả chư-thiên phát sinh đạithiện-tâm hóa ra món cháo và các món ăn với tác-ý hướng tâm cung-kính cúng-dường đến Ngài Đại-đức Sīvali, hỏi các vị tỳ-khưu rằng:

“Ngài Đại-đức Sīvali vị tôn-sư của chúng tôi ngồi ở nơi nào?” (1)

Ngài Đại-đức Sīvali thọ nhận các món vật thực của tất cả chư-thiên, rồi đem đến cung-kính cúng-dường lên Đức-Phật cùng với đoàn 500 Ngài Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đầy đủ

Khi Đức-Phật ngự rời khỏi chỗ ở cùng với đoàn 500 Ngài Đại-đức tỳ-khưu-Tăng lên đường đi đến phía trước, thì ngay khi ấy chỗ ở phía sau biến mất, trở lại cảnh đường rừng như trước.

Tương tự như vậy, Đức-Phật ngự đi cùng với đoàn 500 Ngài Đại-đức tỳ-khưu-Tăng qua mỗi do-tuần thì dừng lại nghỉ qua đêm tại ngôi chùa lớn có 500 cốc nhỏ đầy đủ tiện nghi cần thiết mà tất cả chư-thiên đã chuẩn bị cung-kính đón tiếp chu đáo, như các chỗ ở vừa qua.

Buổi sáng sớm, tất cả chư-thiên phát sinh đại-thiện-tâm hóa ra món cháo và các món ăn với tác-ý hướng tâm cung-kính cúng-dường đến Ngài Đại-đức Sīvali. Sau khi thọ nhận các món vật thực xong, Ngài Đại-đức Sīvali đem đến 1 “Ayyo no Sīvalitthero kahaṃ nisinno?” 28 TÍCH NGÀI ĐẠI-ĐỨC SĪVALI cung-kính cúng-dường lên Đức-Phật cùng với đoàn 500 Ngài Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đầy đủ.

Như vậy, Đức-Phật cùng với đoàn 500 Ngài Đại-đức tỳ-khưu-Tăng hưởng quả báu của đạithiện-nghiệp bố-thí của Ngài Đại-đức Sīvali, trong suốt 30 do-tuần. (1)

Ngài Đại-đức Revata tiếp đón Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng

Ngài Đại-đức Revata biết Đức-Phật ngự đến cùng với đoàn 500 Ngài Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, nên Ngài Đại-đức Revata dùng phép-thần-thông hóa ra cốc lớn gandhakuṭi có đầy đủ mọi tiện nghi cần thiết dành cúng-dường lên Đức-Phật và hóa ra 500 cái cốc nhỏ có đầy đủ mọi tiện nghi dành cúng-dường đến mỗi Ngài Đại-đức, 500 đường đi kinh hành, 500 chỗ nghỉ ban ngày, …

Đức-Phật ngự tại khu rừng này cùng với đoàn 500 Ngài Đại-đức tỳ-khưu-Tăng giống như ngự tại một cõi-giới chư-thiên nào đó suốt một tháng.

Mỗi ngày tất cả chư-thiên trong khu rừng này đem các món vật thực của chư-thiên cúng-dường đến Ngài Đại-đức Sīvali. Sau khi thọ nhận các món vật thực của chư-thiên xong, Ngài Đại-đức Sīvali đem các món vật thực đến cung-kính 1 Evaṃ Satthā saparivāro tiṃsayojanikaṃ santāraṃ Sīvalittherassa puññaṃ anubhavamānova agamasi. Tích Ngài Đại-Đức Revata 29 cúng-dường lên Đức-Phật cùng với 500 chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đầy đủ suốt một tháng.

Đức-Phật cùng với đoàn 500 Ngài Đại-đức tỳkhưu-Tăng hưởng quả báu của đại-thiện-nghiệp bố-thí của Ngài Đại-đức Sīvali (1) suốt một tháng tại khu rừng chỗ ở của Ngài Đại-đức Revata.

Đức-Phật ngự đi cùng với đoàn 500 chư Đạiđức tỳ-khưu-Tăng rời khỏi chỗ ở của Ngài Đạiđức Revata, đi đến ngôi chùa Pubbārāma, gần kinh-thành Sāvatthī. Ngay khi ấy, Ngài Đại-đức Revata xả phép-thần-thông, thì tất cả quang cảnh nào là cốc lớn gandhakuṭi có đầy đủ mọi tiện nghi cần thiết dành cúng-dường lên Đức-Phật và 500 cái cốc nhỏ có đầy đủ mọi tiện nghi dành cúng-dường đến mỗi Ngài Đại-đức đều biến mất, trở lại khu rừng cây có gai như trước.

Ngài Đại-đức Revata vẫn thọ trì pháp-hạnh đầu-đà (dhutaṅga) ở trong rừng cây có gai ấy.

Đức-Phật tuyên dương Ngài Đại-đức Sīvali và Ngài Đại-đức Revata

Tại ngôi chùa Jetavana, nhóm tỳ-khưu đàm đạo tại hội trường về quả báu của đại-thiện-nghiệp 1 Satthāpi bhikkhusaṃghaṃ ādāya puna māsamatteneva Sīvalittherassa puññaṃ anubhavamāno, paṭigantvā Pubbarāmaṃ pāvisi. 30 TÍCH NGÀI ĐẠI-ĐỨC SĪVALI bố-thí đặc biệt của Ngài Đại-đức Sīvali, dù đi đến nơi nào cũng có chư-thiên mọi nơi tìm đến cung-kính cúng-dường đến Ngài Đại-đức Sīvali.

Còn Ngài Đại-đức Revata dù còn nhỏ tuổi mà vẫn sống trong rừng một mình, thật là phi thường chưa từng có.

Khi ấy, nghe chư tỳ-khưu đang đàm đạo, Đức-Phật đi đến hội trường ngự trên pháp-tòa, truyền hỏi chư tỳ-khưu rằng:

- Này chư tỳ-khưu! Các con đang đàm đạo về chuyện gì vậy?

Chư tỳ-khưu kính bạch với Đức-Thế-Tôn về chuyện đang đàm đạo rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, chúng con đang đàm đạo về quả báu của đại-thiện-nghiệp bố-thí đặc biệt của Ngài Đại-đức Sīvali được chư-thiên ở mọi nơi tìm đến cung-kính cúng-dường, và Ngài Đại-đức Revata tuy còn nhỏ nhưng một mình trú trong rừng sâu. Bạch Ngài.

 

Ngài Đại-đức Sīvali có tài lộc bậc nhất 

Đức-Phật thuyết giảng về tiền-kiếp của Ngài Đại-đức Sīvali là cận-sự-nam nhìn thấy Đức-Phật Padumuttara tuyên dương Ngài Đại Trưởng-lão có tài lộc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, cận-sự-nam ấy liền phát sinh đại- Tích Ngài Đại-Đức Revata 31 thiện-tâm có nguyện vọng muốn trở thành Ngài Đại-Trưởng-lão có tài lộc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật trong thời vị lai như Ngài Đại-Trưởng-lão ấy. Cận-sự-nam tiền-kiếp của Đại-đức Sīvali kính thỉnh Đức-Phật Padumuttara ngự đến tư gia cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để tạo phướcthiện bố-thí cúng-dường lên Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng suốt 7 ngày. Đến ngày thứ 7, cận-sự-nam tiền-kiếp của Ngài Đại-đức Sīvali tạo phước-thiện đại-thí cúng-dường lên Đức-Phật Padumuttara cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng xong, cận-sự-nam ấy đến đảnh lễ Đức-Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ kính bạch với Đức-Phật Padumuttara rằng: 

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, phước-thiện bố-thí mà con đã tạo suốt 7 ngày qua, con không cầu mong gì khác hơn là có ý nguyện muốn trở thành bậc Thánh Đại-thanh-văn có tài lộc bậc nhất trong hàng Thanh-văn đệ tử của Đức-Phật trong thời vị-lai, như Ngài Đại-thanh-văn đệtử hiện tại của Đức-Thế-Tôn. Đức-Phật Padumuttara dùng trí-tuệ vị-lai kiến-minh thấy rõ, biết rõ nguyện vọng của cậnsự-nam này sẽ thành tựu trong kiếp vị-lai, nên Đức-Phật thọ ký xác định thời gian rằng:

-“Này chư tỳ-khưu! Kể từ kiếp trái đất này, trong thời vị-lai sẽ trải qua 100 ngàn đại-kiếp trái đất. Đến kiếp trái đất gọi là Bhaddakappa có Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian. Khi ấy, cận-sự-nam này sẽ sinh trong hoàng tộc, từ bỏ nhà đi xuất gia, rồi sẽ trở thành bậc Thánh Đại-thanh-văn có tài lộc bậc nhất trong các hàng Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama, như là bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử hiện-tại của Như-Lai.” (1) Nhân cơ hội này, Đức-Phật tuyên dương Ngài Đại-đức Sīvali rằng: “Etadaggaṃ bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ lābhīnaṃ yadidaṃ Sīvali!” 

- Này chư tỳ-khưu! Sīvali là bậc Thánh Đạithanh-văn có tài lộc bậc nhất trong các hàng thanh-văn đệ-tử của Như-Lai. Như vậy, Ngài Đại-đức Sīvali là bậc Thánh Đại-thanh-văn có tài lộc bậc nhất trong các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama, đúng theo ý nguyện mà tiền-kiếp của Ngài Đại-đức Sīvali đã từng phát nguyện trong thời quá-khứ, được Đức-Phật Padumuttara quá-khứ thọ ký

Nghiệp quá-khứ của Ngài Đại-đức Sīvali 

Nhân cơ hội ấy, chư tỳ-khưu bạch hỏi ĐứcPhật về ác-nghiệp quá-khứ nào của Ngài Đạiđức Sīvali cho quả mà phải chịu khổ nằm trong bụng công-chúa Suppavāsā thời gian lâu rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, quả của ác-nghiệp nào trong quá-khứ khiến cho Ngài Đại-đức Sīvali nằm trong bụng công-chúa Suppavāsā của Đức-vua Koliya suốt thời gian lâu 7 năm, 7 tháng, và 7 ngày (1), phải chịu đau khổ cùng cực như vậy? Bạch Ngài.

 Nghe chư tỳ-khưu bạch hỏi như vậy, ĐứcPhật giải đáp trong tích Khadiravaniyarevatattheravatthu được tóm lược như sau: Trong kiếp trái đất thứ 91, kể từ kiếp trái đất

Đức-vua đem quân vây hãm 4 cửa kinh-thành

 Sau khi lên ngôi làm vua, Đức-vua muốn đánh chiếm kinh-thành nước khác, được mẫuhậu đồng ý, nên Đức-vua dẫn đầu kéo các đoàn quân lính đến vây hãm 4 cửa thành lớn của kinhthành ấy. Đức-vua truyền cho sứ giả đem tối-hậu thư trình lên Đức-vua trong kinh-thành rằng: “Hãy trao lại ngôi vua cho bổn-vương hoặc chiến tranh.”

Đức-vua trong kinh-thành trả lời rằng: “Bổn-vương không trao ngôi vua, cũng không muốn chiến tranh.”

Dân chúng trong kinh-thành vẫn đi ra vào bằng 4 cửa thành nhỏ, để tìm kiếm những nhu cầu cần thiết trong cuộc sống hằng ngày, nên đời sống không gặp nhiều khó khăn.

Đức-vua cùng với các đoàn quân lính bên ngoài đã vây hãm 4 cửa thành lớn suốt 7 năm, 7 tháng.

Một hôm, mẫu-hậu của Đức-vua truyền hỏi rằng: - Này các khanh! Hoàng-nhi của ta đang làm gì vậy?

 Các quan tâu rằng:

Muôn tâu Hoàng-thái-hậu, Đức-vua truyền lệnh các đoàn quân lính vây hãm 4 cửa thành lớn suốt 7 năm, 7 tháng rồi. Tâu Lệnh Bà.

Nghe các quan tâu như vậy, Hoàng-thái-hậu quở trách rằng:

 “Hoàng-nhi của ta còn khờ quá!”

Hoàng-thái-hậu truyền lệnh rằng: - Này các khanh! Các khanh hãy tâu với hoàng-nhi của ta rằng: 

“Hãy đóng chặt 4 cửa thành nhỏ, cấm không cho dân chúng ra vào kinh-thành nữa!”

Tuân theo lệnh của mẫu-hậu, Đức-vua truyền lệnh các đoàn quân đóng chặt 4 cửa thành nhỏ, cấm không cho dân chúng ra vào trong kinhthành nữa

Dân chúng trong kinh-thành không đi ra bên ngoài được, cảm thấy bực dọc, thiếu thốn mọi thứ cần thiết trong cuộc sống, nên không thể chịu đựng được nữa. Đến ngày thứ 7, dân chúng đành phải giết chết Đức-vua trong kinh-thành, rồi dâng ngôi vua cho Đức-vua ngoài thành.

Đức-vua ngoài thành chiếm đoạt kinh-thành một cách bất hợp pháp, tạo mọi ác-nghiệp.

* Sau khi Đức-vua băng hà, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục 44 TÍCH NGÀI ĐẠI-ĐỨC SĪVALI Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy, bị thiêu đốt suốt thời gian lâu dài không kể xiết. Cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy trong cõi đại-địangục Avīci, liền tiếp theo ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong các cõi tiểu địa-ngục, từ cõi tiểu địa-ngục nặng sang cõi tiểu địa-ngục nhẹ theo tuần tự, cuối cùng mới thoát ra khỏi cõi tiểu địa-ngục nhẹ ấy, đại-thiện-nghiệp của tiềnkiếp của Đức-vua cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới là cõi người và các cõi trời dục-giới.

Kiếp chót của Ngài Đại-đức Sīvali

 Tiền-kiếp của Ngài Đại-đức Sīvali đã được Đức-Phật Padumuttara thọ ký, đã thực hành đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ: tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ được tích lũy trong tâm từ kiếp này sang kiếp kia trong vòng tử sinh luân-hồi trải qua vô số kiếp quá-khứ. 

Đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, kiếp chót của Ngài Đại-đức Sīvali, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh đầu thai kiếp chót vào lòng công-chúa Suppavāsā của Đứcvua Koliya (mà tiền-kiếp là mẫu-hậu của Đứcvua đi xâm chiếm kinh-thành nước khác, thainhi là công-tử Sīvali mà tiền-kiếp là Đức-vua Tích Ngài Đại-Đức Revata 45 được mẫu-hậu chấp thuận cho phép dẫn các đoàn quân lính vây hãm 4 cửa thành của nước khác), nên thai-nhi (công-tử Sīvali) nằm trong bụng công-chúa Suppavāsā suốt 7 năm, 7 tháng và chịu thêm quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt 7 ngày (1), bị khổ đau đến cùng cực cả mẫu-thân lẫn thai-nhi, bởi vì thai-nhi nằm ngang ngăn cản không sinh ra được.

Đến ngày thứ 7, công-chúa Suppavāsā của Đức-vua Koliya là bậc Thánh Nhập-lưu thưa với phu-quân là hoàng-tử của Đức-vua Koliya rằng:

 - Kính thưa phu-quân, kính xin phu-quân đi đến đảnh lễ Đức-Phật, rồi bạch về nỗi khổ cùng cực của thiếp không sinh con ra được. Kính thỉnh Đức-Phật ngự đến cung điện cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để thiếp tạo phước-thiện bố-thí cúng-dường lên chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì, trước khi thiếp chết. 

Theo sự thỉnh cầu của phu-nhân Suppavāsā, vị phu-quân đi đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, rồi bạch rằng: 

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, công-chúa Suppavāsā không thể chịu đựng được nỗi khổ đau cùng cực, bởi vì không sinh thai-nhi ra được.

Kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự đến cung điện cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để côngchúa Suppavāsā tạo phước-thiện bố-thí cúngdường lên chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng có ĐứcThế-Tôn chủ trì, trước khi chết.

Nghe hoàng-tử phu-quân của công-chúa Suppavāsā kính bạch như vậy, Đức-Phật Gotama truyền dạy rằng:

“Sukhinī hotu Suppavāsā Koliyadhītā arogā, arogaṃ puttaṃ vijāyatu.”

(Mong cho công-chúa Suppavāsā của Đứcvua Koliya thân tâm được an-lạc không có bệnh, sinh ra công-tử được an toàn khỏe mạnh.)

Sau khi Đức-Phật truyền dạy vừa dứt câu, tại cung điện, thai-nhi sinh ra khỏi lòng công-chúa Suppavāsā của Đức-vua Koliya một cách dễ dàng như nước chảy ra khỏi bình vậy.

* Thai-nhi (công-tử Sīvali) nằm trong bụng của công-chúa Suppavāsā suốt 7 năm 7 tháng, đó là quả của ác-nghiệp mà tiền-kiếp của côngtử Sīvali là Đức-vua được mẫu-hậu chấp thuận cho phép dẫn các đoàn quân lính vây hãm 4 cửa thành lớn của đất nước khác suốt 7 năm 7 tháng.

* Thai-nhi (công-tử Sīvali) nằm ngang trong bụng công-chúa Suppavāsā suốt 7 ngày không sinh ra được, đó là quả của ác-nghiệp tuân theo Tích Ngài Đại-Đức Revata 47 lệnh của mẫu-hậu đóng chặt 4 cửa thành nhỏ, cấm không cho dân chúng ra vào kinh-thành, nên mẫu-thân và thai-nhi cùng nhau chịu quả khổ cùng cực của ác-nghiệp ấy suốt 7 ngày đêm.

Nhờ tâm đại-bi của Đức-Phật, thai-nhi sinh ra khỏi lòng công-chúa Suppavāsā được an toàn và dễ dàng như nước đổ ra khỏi bình vậy.

Công-chúa Suppavāsā tạo phước-thiện bố-thí cúng-dường đến chư tỳ-khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì suốt 7 ngày. Đến ngày thứ 7, Ngài ĐạiTrưởng-lão Sāriputta đến hỏi chuyện công-tử Sīvali rằng:

- Này Sīvali! Con đã chịu đựng nỗi khổ ở trong lòng mẫu-thân lâu như vậy, nay con muốn xuất gia để giải thoát khổ hay không?

Công-tử Sīvali bạch rằng:

- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con muốn xuất gia để giải thoát khổ, nếu con được mẫuthân hoặc phụ-thân cho phép.

Nhìn thấy hài-nhi Sīvali bạch chuyện với Ngài Đại-Trưởng-lão, công-chúa Suppavāsā muốn biết nói về chuyện gì, nên đến bạch hỏi Ngài Đại-Trưởng-lão rằng:

- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, hài-nhi của con bạch chuyện gì với Ngài Đại-Trưởnglão vậy? Bạch Ngài.

- Này công-chúa! Công-tử của Bà bạch về nỗi khổ nằm trong lòng mẫu-thân suốt thời gian lâu dài như vậy, nên bạch rằng:

“Con muốn xuất gia để giải thoát khổ, nếu con được mẫu-thân hoặc phụ-thân cho phép.”

Nghe Ngài Đại-Trưởng-lão nói như vậy, công-chúa Suppavāsā vô cùng hoan-hỷ đồng ý cho phép công-tử Sīvali đi xuất gia để giải thoát khổ, công-chúa bạch rằng:

Như vậy, sa-di Sīvali trở thành bậc Thánh Ara-hán lúc 7 năm, 7 tháng và 14 ngày (kể từ khi công tử Sīvali tái-sinh đầu thai kiếp chót vào lòng mẫu-thân Suppavāsā suốt 7 năm, 7 tháng và 7 ngày chịu khổ cùng cực mới sinh ra đời và lễ phước-thiện bố-thí cúng-dường đến ngày thứ 7)

Ngài Đại-đức Sīvali, là một trong 80 Vị Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama, cũng là một trong 41 Vị Thánh A-rahán Etadagga. Ngài Đại-đức Sīvali có tài lộc bậc nhất trong hàng Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama

Ngài Trưởng-lão Sīvali tịch diệt Niết-bàn

Ngài Trưởng-lão Sīvali là bậc Thánh A-ra-hán lúc 7 năm 7 tháng và 14 ngày, không còn tạo mọi thiện-nghiệp và mọi ác-nghiệp nữa, chỉ còn hưởng quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp hoặc chịu 64 TÍCH NGÀI ĐẠI-ĐỨC SĪVALI quả khổ của ác-nghiệp mà đã được tích lũy từ vô số kiếp quá-khứ mà thôi.

Trường-hợp đặc biệt Ngài Trưởng-lão Sīvali hưởng quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp không chỉ riêng mình Ngài đến trọn kiếp hiện-tại, mà còn ảnh hưởng đến chư tỳ-khưu, chư sa-di gần gũi với Ngài cũng được hưởng quả an-lạc đầy đủ sung túc mà từ trước chưa từng có như vậy.

Ngài Trưởng-lão Sīvali đến khi hết tuổi thọ, tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luânhồi trong tam-giới, đồng thời tất cả mọi đạithiện-nghiệp và mọi ác-nghiệp đã được tích lũy, được lưu trữ trong tâm từ kiếp này sang kiếp kia trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, từ vô thủy cho đến kiếp hiện-tại trước khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, đều trở thành vôhiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) nên không có nghiệp nào còn có cơ hội cho quả được nữa.

* Thi thể của Ngài Trưởng-lão Sīvali được chư tỳ-khưu làm lễ hỏa táng, rồi xây dựng ngôi bảo tháp tôn thờ phần Xá-lợi của Ngài Trưởng-lão Sīvali, để chư tỳ-khưu, chư sa-di, mọi cận-sự-nam, cận-sự-nữ đến lễ bái cúng-dường.

- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con vô cùng hoan-hỷ đồng ý cho phép hài-nhi của con xuất gia để giải thoát khổ. Kính xin Ngài ĐạiTrưởng-lão có tâm-từ tế độ hài-nhi của con.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta dẫn công-tử Sīvali trở về chùa, làm lễ cạo tóc xuất gia. Ngài Đại-Trưởng-lão truyền dạy công-tử Sīvali niệm đề-mục thiền-định “tacapañcakakammaṭṭhāna” tóc, lông, móng, răng, da; da, răng, móng, lông, tóc; … theo chiều thuận, theo chiều nghịch, có trí-tuệ thấy rõ, biết rõ khổ-đế, khi nằm trong bụng mẫu-thân.

Trong khi đang làm lễ cạo tóc, giới-tử Sīvali niệm đề-mục thiền-định “tóc, lông, móng, răng, da; da, răng, móng, lông, tóc; …” theo chiều thuận, theo chiều nghịch, có trí-tuệ thấy rõ biết Tích Ngài Đại-Đức Revata 49 rõ khổ-đế, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánhđế, chứng đắc theo tuần tự từ Nhập-lưu Thánhđạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu; chứng đắc Nhất-lai Thánhđạo, Nhất-lai Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhất-lai; chứng đắc Bất-lai Thánhđạo, Bất-lai Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Bất-lai; chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng cùng với tứ tuệ-phân-tích (paṭisambhidā), lục-thông (chaḷabhiññā), đồng thời với lễ cạo tóc xong không trước không sau.

Kể từ khi công-tử Sīvali tái-sinh đầu thai kiếp chót vào lòng mẫu-thân Suppavāsā suốt 7 năm, 7 tháng và 7 ngày chịu khổ cùng cực mới sinh ra đời (1) và lễ phước-thiện bố-thí cúng-dường đến ngày thứ 7.

Như vậy, vị sa-di Sīvali trở thành bậc Thánh A-ra-hán lúc 7 năm, 7 tháng và 14 ngày, nên gọi là Ngài Đại-đức Sīvali.

Lễ cạo tóc xuất gia cho công-tử Sīvali * Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta là Vị Thầy Tế-độ truyền dạy công-tử Sīvali thực hành niệm đề-mục“tacapañcakakammaṭṭhāna”: kesā, lomā, nakkhā, dantā, taco; taco, dantā, nakkhā, lomā, kesā; … theo chiều thuận, theo chiều nghịch, với trí-tuệ thấy rõ, biết rõ khổ-đế khi ở trong lòng mẫu-thân.

 * Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna là Vị Thầy cạo tóc, khi những sợi tóc đầu tiên rơi xuống, giới-tử Sīvali chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu. 

* Tiếp theo những sợi tóc thứ nhì rơi xuống, giới-tử Sīvali chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánhquả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.

 * Tiếp theo những sợi tóc thứ ba rơi xuống, giới-tử Sīvali chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánhquả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Bất-lai.

* Tiếp theo những sợi tóc cuối cùng rơi xuống, giới-tử Sīvali chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, Ara-hán Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng cùng với tứ tuệ-phân-tích (paṭisambhidā), sáu phép-thầnthông (chaḷabhiññā), đồng thời với lễ cạo tóc không trước không sau.